PHỤNG VỤ Thánh lễ có được tính cách lễ hội và tôn kính nhờ qua một cái gì đó rất tuyệt vời và cao cả trong tâm linh công giáo, đó là phụng vụ. Trong phụng vụ, mỗi chữ mỗi cử chỉ đều mang một ý nghĩa cá biệt, có thể nói gần như ẩn chứa một bí mật riêng. Qua phụng vụ trần gian, người tín hữu được tham dự trước – điều này cũng được công đồng Vatican II nói tới – vào “phụng vụ thiên đình”. Đây là một điểm rất quan trọng. Phụng vụ không bao giờ chỉ là cuộc lễ hội do một nhóm người tự nghĩ ra và tổ chức. Nhưng ở đây, qua sự thông phần vào việc Đức Giê-su Ki-tô trình diện trước mặt Thiên Chúa Cha, chúng ta luôn cùng đứng trong cộng đoàn hoàn vũ của toàn thể Giáo Hội cũng như trong cộng đoàn các Thánh. Vâng, có thể nói đây là một phụng vụ thiên đình. Cái thực sự cao cả ở đây là thiên đình mở ra, và chúng ta nhập vào ca đoàn thiên quốc. Đó là lí do mà kinh tiền tụng đã kết thúc bằng : Chúng ta cùng hát với ca đoàn các thiên thần Se-ra-fim và Ke-ru-bim. Và ta biết, là ta không đơn độc, nhưng chúng ta đang cùng chung lời ca để thật sự xé tan đi làn ranh ngăn cách trần gian với thiên quốc. Đại giáo phụ Basilius* nhận định rằng, thánh lễ cũng là nguồn mạc khải lớn như Kinh Thánh. Vì thế ngài cấm nghiêm nhặt không được tuỳ tiện giải thích hay cải đổi phụng vụ. Nếu phụng vụ không do con người làm ra, nhưng là một cái gì qua đó con người được kinh nghiệm với cái tuyệt vời thần linh – thì lẽ ra ta phải coi thánh lễ cũ của đại giáo chủ Grê-gô-ri-ô như là một quà tặng từ trên và không được thay đổi nó ? Vấn đề này có một vài phân cách giữa đông và tây. Chẳng hạn Giáo Hội Byzantin thừa nhận hình thái phụng vụ của thế kỷthứ 4 và 5 với Basilius và Gio-an Chrysostomos. Cũng như các Giáo Hội đông phương khác, Giáo Hội Byzantin coi đó là một quà tặng thần linh, không thể sửa đổi : Chúng ta bước vào nó, chứ không tạo ra nó (dĩ nhiên một số chi tiết cũng đã biến chuyển theo thời gian). Phương tây, trái lại, luôn có một nhạy cảm lịch sử mạnh hơn. Họ cũng nhận ra tính cách quà tặng nơi phụng vụ, nhưng quà đó đã được hội hập vào Giáo Hội sống động, và đã cùng lớn lên với Giáo Hội. Ta cũng có thể so sánh với Kinh Thánh. Đó không phải là Lời rơi thẳng từ trời xuống, nhưng là Lời đã được đưa vào lịch sử, và được cùng lớn lên với lịch sử. Vì vậy, Giáo Hội phương tây vẫn chấp nhận tính cách bất khả xâm phạm cơ bản của phụng vụ trong tổng thể nội dung và hình thức của nó, nhưng đồng thời vẫn thận trọng để cho nó lớn lên với lịch sử. Lễ quy thánh lễ Rô-ma giống như bên phương đông, cũng hình thành trong thế kỷthứ 4. Sau đó, cả bên tây cũng đã nẩy sinh thêm nhiều kiểu phụng vụ, do ảnh hưởng của Pháp, của Tây-ban-nha, của Đức và tiếp theo từ nhiều nguồn khác. Mỗi quốc gia xuất hiện đều được phép góp vào tiến trình phát triển đó một phần của mình, trong đó Rô-ma luôn góp í một cách thận trọng và đôi khi phải chận cắt bớt những cái thái quá. Trong quá trình lớn lên này, Rô-ma là kẻ đã giữ phụng vụ trong hình thái cổ của nó một cách nghiêm nhặt nhất, tôi có thể nói, còn cổ hơn bên đông nữa, ít nhất là nhìn từ mô thức thần học. Với cách đó, phụng vụ luôn sống động trong quá trình lịch sử - nhờ đó ta có thể đưa vào được những cái mới, đặc biệt các thánh mới -, nhưng trong bản chất, phụng vụ vẫn luôn không đổi. Cũng vì vậy bên tây mới có thể nghĩ tới chuyện cải tổ phụng vụ. Song cải tổ không được phép cắt đứt với truyền thống, nhưng phải diễn ra trong sự quan tâm tới những phát triển sống động, cũng như phải canh chừng cái phát triển, để làm sao giữ được sự sống động. Chẳng hạn giáo chủ Pi-ô X đã hạn chế bớt lễ kính các thánh. Ngài cũng đã nhấn mạnh trở lại ngày chủ nhật trong bộ luật của ngài và bỏ bớt những cái dư thừa trong đó. Ngay Pi-ô V cũng đã bỏ đi một một số bài ca đã len lỏi vào phụng vụ. Công đồng Vatican II cũng đứng trong quan điểm đó. Việc tiếp tục phát triển để tránh không bị xơ cứng đã thuộc vào truyền thống phụng vụ của Giáo Hội. Nhưng sự khác biệt mà tôi muốn nói ở đây là, tôi đang canh giữ một cái gì đang sinh động phát triển, và biết rằng sự sống của nó không nằm trong tay tôi – nhưng tôi phải phục vụ nó và phải để ý tới quy luật nội tại của cái sống động đó -, hay là tôi xem cái đó như một thứ sản phẩm con người, nó diễn tiến như kiểu theo quy luật của một chiếc máy mà tôi có thể cải biến hoặc làm khác đi. Công đồng Vatican II hẳn có quan tâm tới những phát triển và đổi mới cơ chế. Nhưng chúng ta phải thấy rằng, ngày nay đang có nhiều khuynh hướng muốn lắp ráp thêm hoặc tháo gỡ bớt - chuyện này không phù hợp với bản chất của phụng vụ. Không phải đơn giản các uỷ ban giáo sư tự nghĩ ra chuyện làm sao để phụng vụ được tốt hơn về mặt mục vụ, để nó được thực tế hơn hay là gì gì đi nữa. Nhưng ta phải coi xem chỗ nào cần và có thể thêm gì, chỗ nào cần và có thể bớt gì, trong sự quan tâm lớn tới khối hành trang đã có từ nhiều thế kỉ. Và đây có thể là lời cảnh cáo quan trọng đối với tất cả những ai có trách nhiệm với phụng vụ : Họ nên thi hành công tác với tinh thần phục vụ những gì đã sinh động lớn lên, những gì đã từ bao thế kỷnay mang lại cho ta đức tin, chứ đừng nghĩ mình là những kẻ toàn năng, có thể sáng tạo hoặc chế biến ra được cái hay hơn. Chẳng còn ai quan tâm gì tới những phê bình về phụng vụ hiện tại. Nhiều người cho rằng phụng vụ chẳng còn linh thiêng đủ. Phải chăng cần cải tổ tiếp cái đã cải tổ, để tìm lại tính chất linh thiêng ? Cái cần tối thiểu bây giờ là làm sao phải tạo lại một ý thứcmới về phụng vụ, để cho tinh thần tự biên tự diễn kia biến đi. Vấn đề đã đi quá xa, có những nhóm tự bày ra luôn hình thức dâng lễ chủ nhật. Đây quả là sản phẩm của một số đầu óc khôn ngoan và mạnh dạn, dám nghĩ ra một cái gì. Nhưng làm vậy thì đâu còn chỗ cho cái thánh thiêng được trao tặng cho ta, mà chỉ còn là cái khéo tay của một vài người. Và rồi ta sẽ nhận ra đó không phải là cái ta tìm, cái đó quá ít, ta chờ đợi một cái gì khác kia. Điều quan trọng nhất ngày nay, là ta phải tìm lại được lòng kính trọng và tính chất bất khả nguỵ tạo của phụng vụ. Phải học lại cách để nhận biết đó là một tặng phẩm và là một phát triển sống động, qua đó ta tham dự vào phụng vụ thiên quốc. Phải coi đó là một món quà Chúa gởi đến cho ta, chứ không phải là một sản phẩm tự chế của ta. Tôi nghĩ, việc đầu tiên là phải chấm dứt tinh thần tự biên tự diễn và phải để cho cảm thức về sự thánh thiêng lớn lên. Bước thứ hai, ta có thể rồi sẽ nhận ra được lãnh vực nào đã bị cắt xén quá nhiều, chữa lại để làm sao sự liên hệ với toàn bộ lịch sử có được rõ ràng và linh động trở lại. Trong ý nghĩa đó, tôi chủ trương cải tổ lại những cải tổ. Tuy nhiên, theo tôi, tiến trình này phải bắt đầu bằng sự giáo dục nhằm chống lại việc phá nát phụng vụ bằng những sáng chế cá nhân. Phải chấm dứt thái độ khinh miệt hình thức phụng vụ đã có giá trị cho tới năm 1970, đây cũng là điểm quan trọng trong việc giáo dục một ý thứcphụng vụ đúng đắn. Cho tới nay, những ai tranh đấu hay cổ xuý cho việc tiếp tục cử hành nghi lễ cũ, đều bị đối xử như những người phung hủi ; thật chẳng có chút gì gọi là bao dung cả. Chưa bao giờ xẩy ra chuyện như thế trong lịch sử, làm vậy là người ta khinh cả toàn bộ quá khứ của Giáo Hội. Khinh quá khứ thì làm sao tin vào hiện tại của Giáo Hội được? Nói thật lòng, tôi cũng không hiểu nổi, tại sao có nhiều đồng nghiệp giám mục của tôi lại chấp nhận hành động bất khoan dung rõ ràng đi ngược lại những hoà giải cần thiết trong nội bộ Giáo Hội như thế. Tới bao giờ mới thật sự diễn ra bước thứ hai mà Hồng Y đã nói tới : cải tổ lại những cải tổ ? Tôi nghĩ, nó cũng giống như phong trào phụng vụ trước đây đã đưa tới công đồng Vatican II. Phong trào đó lúc đầu tiến triển khá chậm, về sau đã nhanh chóng trở thành dòng nước mạnh. Quan trọng là phải có một thúc đẩy từ các tín hữu sống động nhiệt thành, phải có những địa điểm thí điểm, nơi đó phụng vụ được cử hành một cách đúng đắn, khiến người ta nhận ra được đâu là ý nghĩa thực sự của thánh lễ. Nếu như từ đó mà một phong trào nổi lên và không bị dập tắt từ trên, thì rồi chuyện sẽ tới. Và tôi tin rằng, đã có một khơi nguồn về hướng đó rồi nơi thế hệ mới hiện nay. Hồng Y đã hình dung ra được một hình thái phụng vụ đích thực, thánh thiêng, một phụng vụ cho tương lai dân Chúa và Giáo Hội chưa ? Chuyện căn bản là làm sao chúng ta đón nhận lại những hình thức quà tặng và để lòng mình thấm nhập vào chúng. Khi nghĩ lại những giai đoạn của phong trào phụng vụ mà tôi may mắn đã trải qua, tôi thấy đó quả là một cái gì tuyệt vời, khi mình lần hồi thấy được các thánh lễ mùa chay đã phát triển thế nào, hiểu được cấu trúc của mùa chay ra sao, hiểu được toàn bộ cấu trúc thánh lễ và nhiều thứ nữa. Vấn đề là làm sao thấm nhập được vào kho tàng của cái đã hình thành và lớn lên đó, và qua đó gặp được nỗi huy hoàng của Thiên Chúa đang trao tặng cho ta. Quan trọng nhất, theo tôi, là học lại được tinh thần lắng nghe – “hỡi con, hãy lắng nghe”, thánh Biển-đức đã nói thế, và hiểu được rằng mình là kẻ đón nhận hơn là người sáng chế. Thánh lễ nên cử hành lại bằng tiếng La-tinh ? Chuyện đó, xét chung, không còn thực hiện được nữa đâu, và có lẽ cũng không phải là điều mong muốn. Thánh lễ có lẽ tốt hơn nên cử hành bằng tiếng mẹ đẻ. Nhưng tôi chủ trương nên có một cởi mở mới cho tiếng La-tinh. Tiếng La-tinh trong thánh lễ lúc này xem ra mắc phải tội tổ tông. Tuy nhiên, thiếu nó, là ta mất đi những trao đổi giao tiếp rất cần thiết trong những vùng nhiều sắc dân. Chẳng hạn, một chánh sở nhà thờ chính toà ở Avignon kể cho tôi hay, ngày chủ nhật nọ xuất hiện một lúc ba nhóm ngôn ngữ. Ông đề nghị làm lễ chung bằng La-tinh, để tất cả có thể cùng thông công, nhưng cả ba phản đối thẳng thừng : Không, mỗi nhóm phải có gì riêng cho họ. Hay ta hãy nghĩ tới những địa điểm du lịch, thật tuyệt khi nơi đây nhờ có một điểm chung mà người ta nhận ra nhau. Vì thế, cần suy nghĩ về điểm này. Nếu như ở Rô-ma ngay trong những dịp lễ lớn không còn ai hát được Kyrie hay Sanctus nữa, không còn ai hiểu được Gloria nghĩa là gì, thì đó là một mất mát văn hoá và là một mất mát những cái chung. Như vậy tôi có thể nói, thánh lễ nhất định nên bằng tiếng địa phương, tuy nhiên cũng cần giữ lại La-tinh như một cái nền chung liên kết chúng ta lại với nhau. - Nhà văn Martin Mosebach có lần kể câu chuyện ngắn về một thánh lễ, đã diễn ra nhiều năm trước đây trên đảo Capri. Ngày nọ trên đảo xuất hiện một linh mục người Anh, linh mục này thời đó còn bận áo chùng, một sự kiện đã hiếm thấy ở miền nam nước Í. Khi nghe ông có í muốn dâng lễ mỗi ngày, sau những đắn đo ban đầu, người dân trên đảo cuối cùng đã dành cho ông một nhà nguyện chênh vênh trên một đống đá trên biển, nơi gọi là Monte Tiberio, chỗ xưa kia có dinh Jovis, một trong những dinh phụ của hoàng đế Tiberius. Nhà nguyện này mỗi năm chỉ mở cửa một lần, vào ngày 8 tháng 9, ngày lễ sinh nhật đức Bà. Thời gian còn lại trong năm được dành cho lũ chuột, chúng gặm nhấm đến cả các ngăn tủ nhà mặc áo. - Ông linh mục người Anh là người thực tế, không phải là nhà thần học lớn, bắt tay vào việc. Ông leo lên núi, phóng cái nhìn xuống toàn vịnh biển chung quanh. Trước hết, phải chật vật lắm mới mở được ổ khoá cửa vào nhà nguyện đã rỉ sét. Rồi ông bước vào, theo ông là một làn tia sáng mặt trời, rọi chiếu vào căn phòng ẩm mốc. Cánh cửa thiếc nhà tạm mở toang, nến cháy cạn đáy, ghế vứt ngổn ngang, và nhà mặc áo bừa bãi như người ta đã bỏ trốn vội vàng. Bình hoa bẩn, khăn bàn thờ mốc meo, một chén thánh hoa văn loè loẹt, các khăn bàn ẩm dính lại với nhau trong tủ, cuốn sách lễ rách bươm, ngay cả thánh giá cũng đã cong queo. - Vị linh mục nhìn qua mọi thứ, suy nghĩ. Ông mở toang cửa sở, cầm lấy cây chổi rơm ở góc nhà và bắt đầu quét. Rồi ông cầm cây thánh giá, đưa lên hôn và bỏ vào tủ phòng mặc áo. Chùi sạch chén thánh, bật sáng các ngọn đèn. Nhìn thấy đoạn dây chuông, ông lấy thang leo lên tháp và buộc dây vào chuông. Giờ thì mọi chuyện kể như đã ổn. - Vị linh mục đeo vào người tấm dây Stola màu tím, đổ ít nước từ một bình nhựa nhỏ mang theo vào cái nồi nhỏ, đọc lời nguyện, bỏ thêm vào ít muối, rồi dơ tay làm phép, đoạn đổ nước phép đó vào chậu con sò bằng đá dựng bên cánh cửa ra vào, tiếng nước đổ lao xao nghe như thể chậu đá thức dậy, thở phào. Ông kéo chuông. Xa xa vài ba tín hữu, đàn bà và trẻ con, xuất hiện kéo tới, chẳng mấy lúc đầy nhà nguyện. - Giờ thì có thể bắt đầu thánh lễ. Linh mục cúi mình trước bàn thờ và cất giọng đọc : Introibo ad altare dei (Con bước tới trước bàn thờ Chúa). - Ai để tâm quan sát thì có thể nhận ra hình như có một chuyện gì đặc biệt đã xẩy ra, khi vị linh mục mặc áo chùng thâm kia lau sạch bàn thờ, đốt nến, làm phép nước, lau bụi bám, vứt bẩy chuột vào một góc nhà. Vì cũng giống như Abel hay Noê xưa, thoạt tiên dựng bàn thờ rồi sau đó mới dâng của lễ. Và cũng như Mai-sen, vị linh mục cắm cọc xác định chỗ dựng lều làm bàn thờ. Đó là một sự chuẩn bị và cắm cọc xác định chỗ thánh. Mosebach mô tả thật thi vị, nhưng tình hình chung ở Capri không đến nỗi thê thảm như người ta nghĩ đâu. Nhưng hãy bàn tiếp việc chuẩn bị bề ngoài và bề trong, hai chuyện đó đương nhiên liên quan với nhau. Sứ mạng thừa sai của thánh Phan-sinh cũng bắt đầu như thế. Ngài đọc ra ý nghĩa của những chữ nổi tiếng trên thánh giá là – “con hãy xây lại nhà nguyện cho Ta” - và đã nghĩ ngay tới nhà thờ đổ nát ở Portiuncula. Ngài đã xây nó lại thành một nguyện đường đẹp đẽ, và rồi nhận ra rằng mình phải làm hơn thế nữa, đó là phải xây lại nhà thờ Giáo Hội sinh động. Nhưng công việc tay chân bước đầu đó cũng là một công đoạn không thể thiếu. Phải lo làm sao phòng ốc, nhà nguyện luôn được sửa soạn mới mẻ, làm sao để người ta có thể nhận ra và cảm được sự thánh thiêng cả bề ngoài lẫn bề trong, đó là điều rất quan trọng. Cám ơn Chúa, chúng ta có rất nhiều nguyện đường tuyệt diệu trên khắp thế giới, giờ ta cũng nên học lại cách yêu mến sự thánh thiêng nơi chúng. Ngọn lửa trước nhà tạm giúp ta cảm được sự hiện hiện âm thầm đêm ngày của Chúa. Ngày nay, nhiều nhà thờ thường được dùng làm nơi hoà nhạc, làm nơi gần như để khoa trương cái đẹp của quá khứ mình, như vậy có nghĩa là trên thực tế ta đã mất đi cảm quan về sự thánh. Phải có lại được cảm quan đó, phải có lại được sự chuẩn bị căn phòng bên ngoài lẫn bên trong, đó là điều kiện để ta nhập tâm vào thánh lễ, hầu thực sự gặp được sự thánh thiêng trong đó. Phải chuẩn bị rước Mình thánh như thế nào ? Cách chuẩn bị đúng nhất là khi ta thật sự lãnh hội được ý nghĩa của hành động đó, khi ta để cho lời Chúa đánh động, khi ta hướng lòng tới Đức Ki-tô trong những lời nguyện đã được Giáo Hội lưu truyền lại từ rất xa xưa. Cùng cầu nguyện và dâng lễ một cách đúng đắn trong thánh lễ có nghĩa là ta phải để tâm lắng nghe và sẵn sàng đón nhận, qua đó cửa lòng mình hé mở ra để Chúa có thể đi vào. Và ngược lại, cái tôi của tôi lúc đó cũng thật thanh thản và rộng mở, đến nỗi tôi có thể bắt đầu bước được vào trong Ngài. Khi rước lễ phải có thái độ nào ? Phải cư xử như đang đối diện thật sự với Chúa. Những dấu chỉ của lòng kính sợ đã thay đổi theo thời gian. Nhưng căn bản là thái độ của ta phải biểu lộ được những cảm nhận trong lòng, và sự kính trọng cũng phải được tỏ ra qua phong cách của cơ thể. Trước kia, rước lễ quỳ gối, động tác này rất có ý nghĩa. Nay rước lễ đứng. Nhưng cái đứng này cũng phải là một cái đứng đầy kính trọng trước mặt Chúa. Trong Giáo Hội, không bao giờ được để mất hành vi quỳ gối. Đây là phong cách thâm sâu nhất nói lên lòng đạo nơi ki-tô hữu. Phong cách này cho thấy thái độ thẳng thắn của ta nhìn hướng lên Chúa, đồng thời nói lên vị trí thấp bé khiêm tốn của ta. Giáo chủ Gio-an XXIII nói : “Con người không bao giờ lớn khi họ quỳ gối”. Vì thế tôi tin rằng đây là cung cách không thể thiếu được nơi tín hữu ki-tô, cung cách cầu nguyện đó đã có từ thời Cựu Ước rồi.
|